Giáo xứ Trang Nứa nằm trên địa bàn xã Hưng Yên, Huyện Hưng Nguyên, Tỉnh Nghệ An, với diện tích khoảng 5km2
Đây là vùng đất được bao bọc bởi dạy núi Đại Huệ về phía tây nam và kênh đào nhà Lê về phía đông. Địa hình gồm nhiều dạy núi xen lẫn với các đồng bằng. Tuy nhiên một bộ phận lãnh thổ phía đông tiếp giáp với kênh nhà Lê về mùa mưa thường xuyên bị ngập lụt.
Nghề nghiệp của dân cư là sản xuất nông nghiệp. Năm 2004 giáo xứ Trang Nứa có 9 giáo họ và một sở Dòng. Giáo xứ nhận Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời làm quan Thầy, có 1293 hộ gia đình, số giáo dân là 6552 người.
1. Giáo họ Trang Nứa là giáo họ Trị Sở, số giáo dân 870 người. Quan thầy là Đức Mẹ Mân Côi (7/10).
2. Giáo họ Tân Định, có 120 hộ gia đình, số giáo dân 614 người, Quan thầy là thánh Giuse thợ ( 1/ 5).
3. Giáo họ Xuân Yên có 132 hộ gia đình, số giáo dân là 697 là 697 người. Quan thầy là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
4. Giáo họ Đồøng Kiểu, có 65 hộ gia đình, số giáo dân là 300 người. Quan thầy là Đức Mẹ Thăn Viếng ( 31/ 5).
5. Giáo họ Yên Thịnh, có 294 hộ gia đình, số giáo dân là 1553. Quan thầy là Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ.
6. Giáo họ Sơn Lạng, có 44 hộ gia đình, số giáo dân 216 người. Quan thầy là Thánh An Tôn ( 13 / 6).
7. Giáo họ Đồng Nhân, có 287 hộ gia đình, số giáo dân là 1507 người. Nhận Thánh Phê rô làm Quan thầy.
8. Giáo họ Thượng Thôn, có 115 hộ gia đình, số giáo dân là 551 người. Quan thầy là thánh Giuse bạn Đức Mẹ ( 19 /3).
9. Giáo họ Tân Sơn, có 47 hộ gia đình, số giáo dân là 224 người. Quan thầy là thánh Gioan Tẩy Giả.
LỊCH SỬ ĐÓN NHẬN TIN MỪNG VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO XỨ TRANG NỨA.
I TRANG NỨA THỜI ĐÓN NHẬN TIN MỪNG CHO ĐẾN KHI THÀNH LẬP.
Theo ghi chép của nhiều bậc tiền nhân và sử sách để lại. Năm 1628 vua Trịnh Tráng lệnh cấm dân không được tiếp xúc với các nhà truyền giáo phương Tây. Cho đến năm 1630 hai cha: Đắc Lộ và Marguesf bị trục xuất khỏi Đang ngoài. Trên thuyền đi vào đàng trong các Ngài đã ghé vào truyền giáo tại Nghệ An. Khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1630, Cha Đắc Lộ đã đến truyền giáo tại vùng Trang Nứa. Thời đó các vị Thừa Sai thường đi ruyền giáo bằng đường thuỷ: Sông Lam, sông La, kênh đào nhà Lê và những vùng ven biển được đón nhận Tin Mừng trước. Sau một thời gian truyền giáo ở Việt Nam nói chung và ở Nghệ An nói riêng, do nhiều yếu tố trắc trở tại đây cho nên cha Đắc Lộ bị trục xuất khỏi Việt Nam. Công cuộc truyền giáo ngày càng được mở rộngvà viiệc đón nhận Tin Mừng ngày càng phát triển. Mãi cho đến 1634, cha Majori ca tiếp tục truyền giáo tại vùng Nghệ An và Thanh Hoá. Cho đến 1640, trong số 70 làng công giáo mà cha Majarica truyền giáo thì có làng Thiều Xá nay là họ Trang Nứa. Năm 1679, Đức Giám mục De Bourges được bổ nhiệm phụ trách Đàng Ngoài. Trong khoảng thời gian 1679-1680 thời vua Lê Huy Tông, Đức Giám mục De Bourges đã thiết lập Tiểu Chủng Viện đầu tiên ở đàng ngoài tại Trang Nứa.
Ngày 5 / 2 / 1713, Đức Cha Belot đã đến thăm Tiểu Chủng Viện Trang Nứa vơiù việc cử hành thánh lễ và ban ơn toàn xá ( lúc ấy Trang Nứa là một làng toàn tòng).
Theo truyện ông Phúc Lộc viết: Trang Nứa là nơi có trường La Tinh Nghệ An, gọi là nhà trường ông Thánh Giuse. Các vị Thừa Sai thường đến cấm phòng với các chủng sinh và học tiếng Việt tại đó. Năm 1789, thời Tây Sơn vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản có lệnh cấm đạo nghiêm ngặt, Tiểu Chủng Viện tại Trang Nứa bị thiêu huỷ . Lúc đó Đức Cha Hậu 1 ( Mgr De la motte ) đang ở Trang Nứa nhưng Ngài đã trốn thoát, chấm dứt 100 năm tồn tại của tiểu chủng viện Trang Nứa.
Ngày 27 / 03/ 1846, Đức Grêôriô XVI ban Sắc lệnh Nam Đàng Ngoài, hay giáo phận bên Bắc Kì ( Tonkinh méri dional)hay gọi văn tắt là giáo phận Nam. Nhưng từ năm 1924 trở đi, giáo phận này có một tên mới, gọi là giáo phận Vĩnh. Do người Pháp không phát âm được chữ Vĩnh mà đọc thành Vinh nên về sau gọi là giáo phận Vinh. Cùng năm đó xứ Xã Đoài được thành lập và trở thành Tổng Toà.
Năm 1848, Đức Cha Hậu được bố nhiệm làm giám mục.Lúc đó Xã Đoài là một vung rộng lớn có nhiều làng công giáo gồm: Trang Nứa, Buì Ngoạ, Nhân Hoà, Xã Đoài, Bình Thuận, Xuân Mỹ, Mẫu Lâm. Ngày 5/ 8/ 1861vua Tự Đức ra chỉ dụ “ Phân Tháp” ly tán và sát hại người công giáo. Tại Trang Nứa lúc này có nhiều người công giáo từ nhiều vùng khác nhau đã đến trú ẩn, trong đó có một bộ phận lớn là người Trang Cảnh, Quy Chính, Trung Hoà ( Thanh Chương)…Trong thời điểm này Đức Cha Hâụ rất có uy tín với vua Tự Đức, chính ở Trang Nứa lúc này cũng có một đội quân bảo vệ người công giáo. Sau đó các vùng này lập ấp tại vùng Trang Nứa và trở thành các vùng công giáo.
Theo cuốn Niên Giám Thống Kê Giáo Phận Vĩnh năm 1882, ở địa bàn Tràng Nứa có 5 làng công giáo, số giáo dân là 970 người.
1. Làng Thiều Xá có 616 giáo dân, nay gọi là Trang Nứa.
2. Làng Làng Thượng có 137 giáo dân, nay là họ Thượng Thôn.
3. Làng Sơn Trang có 76 giáo dân, nay là họ Sơn Lạng.
4. Làng Lập Cầu có 66 giáo dân, một số chuyển về họ Đồng Nhân và một số còn lại thì bỏ đạo, nay là làng Thạch Tiền.
5. Làng Cồn Tra có 75 giáo dân, nay là họ Xuân Yên.
II. TRANG NỨA TỪ NGÀY THÀNH LẬP GIÁO XỨ
ĐẾN NAY.
Năm 1888, thời vua Đồng Khánh, Đức Cha Trị đã cho phép 5 làng công giáo ở tây nam Xã Đoài tách ra khỏi xứ Xã Đoài lập nên xứ Trang Nứa.
Ngày 7/ 5/ năm 1888 xứ Trang Nứa chính thức được thành lập. Lấy trụ sở tại làng Thiều Xá, Phú Hưng Nguyên. Cha quản xứ đầu tiên là cha Triêm.
Theo truyền khẩu của các vị tiền nhân, do có một số bộ phận đông giáo dân thuộc họ đạo Trang Cảnh, lúc bấy giờ thuộc giáo xứ Làng Anh, trong thời kỳ “Phân tháp” 1861 đến lánh nạn và sinh sống tại vùng này. Nên khi thành lập xứ giáo dân gọi tên xứ là xứ Trang Nứa.
Ban đầu thành lập có 2 giáo họ và 4 làng công giáo có 1236 giáo dân.
2 giáo họ tiên khởi là: Họ Thiều xá nay là họ Trang Nứa và họ Làng Thượng nay là họ Thượng Thôn.
Làng Sơn Trang nay là giáo họ Sơn Lạng (giáo xứ Đồng Sơn).
Làng Cồn Tra nay là giáo họ Xuân Yên.
Làng Lập Cầu nay là Làng Thạch Tiền và một số chuyển về Làng Đồng Nhân. Làng Quan Nhân được lập cùng với năm thành lập xứ nay là giáo họ Đồng nhân.
Năm 1899 Thời vua Thành Thái, lúc đó cha Chiểu quản xứ.Đức cha Trị đã cho phép làng Cồn Tra được thành lập gọi là họ Nhật Tân nay là họ Xuân Yên.
Những năm đầu thế kỉ 20 thực dân Pháp cai trị nước ta nên Đạo Công giáo phát triển mạnh.
Năm 1910 tại họ Thiều Xá,cha Nghĩ đã thiết lập nhà phước sau này trở thành Tu Viện Dòng Mến Thánh giá Trang Nứa.
Năm 1912 họ Thiều Xá có hai nhóm giáo dân di cư đến vùng kinh tế mới.Một nhóm di cư lên núi lập làng trại.Một nhóm di cư ra đồng phía Tây Nam lập làng đồng. Lúc này Trang Nứa lại có thêm hai làng công giáo là làng Trại và làng Đồng.
Năm 1926 cha Biển về quản xứ. Ngài đã xin Đức cha Bắc lập nên hai giáo họ mới là họ Giáp Trại (Giáo họ Tân Định ngày nay) và họ Giáp Đồng nay là họ Yên Thịnh, và đổi tên họ Thiều Xá thành họ Giáp Làng.
Năm 1928, Làng Sơn Trang cũng đươc thành lập, có tên là họ Sơn Trang, nay là họ Sơn Lạng (Giáo xứ Đồng Sơn). Sau đó 2 năm, tức năm 1930, một số bộ phận giáo dân Giáp Trại di cư cùng với 4 gia đình gốc Nam Đàn lập họ Nhà Kiểu nay là họ Đồng Kiểu.
Như vậy đến năm 1930, Trang Nứa đã có 8 giáo họ và một sở dòng nữ.
Năm 1950 – 1951 Cha Hiền quản xứ, ngài tiến hành xây dựng lại nhà thờ xứ. Công trình đang xây dựng dở dang thì xảy ra biến cổ “năm 1952”. Biến cổ này đã làm tổn thất lớn cho giáo xứ: có 17 giáo dân chết và rất nhiều người phải đi tù.
Năm 1954 sau hiệp định Giơ-ne-vơ, người công giáo ở Miền Bắc đã ồ ạt di cư vào Miền Nam. Năm 1955 đã có hơn 1000 giáo dân Trang Nứa di cư vào Miền Nam làm cho giáo xứ giảm đi 1/3 số giáo dân.
Năm 1956 Cha Giuse Nguyễn Đức Bảo về quản xứ. Năm 1957, ngài mở lại trường Phan-xi-cô; trường văn hóa của xứ; mở mang văn hóa và kiến thức cho giới trẻ.
Năm 1964 – 1968 chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt, nhiệu trận bom đã dội xuống địa bàn giáo xứ. Đặc biệt là trận bom ngày 10/06/1968 tại họ trị sở đã làm hư hại tài sản của giáo dân và sở dòng.
Năm 1969 trước tình cảnh chiến tranh gay gắt, Cha Giuse Bảo kêu gọi giáo dân lần hạt Mân Côi để xin Đức Mẹ ban ơn bình an. Chín trong thời gian này, ngài đã đổi tên họ Giáp Làng thành họ Thiều Quang – và chọn Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy riêng cho Họ và lập hội Mân Côi trong giáo xứ. Đồng thời đổi tên một số giáo họ trong xứ:
Họ Giáp Đồng gọi là họ Yên Thịnh
Họ Giáp Trại gọi là họ Tân Định
Họ Làng Thượng gọi là Họ Thượng Thôn
Họ Quan Nhân gọi là họ Đồng Nhân
Năm 1982, cơn bão lịch sử làm hầu hết các nhà thờ họ trong xứ bị sụp đổ, riêng nhà thờ xứ không đổ nhưng bị hư hỏng trầm trọng. Thời gian này cha Đại đang quản xứ. Năm 1968 và 1986, họ Đồng Nhân dời lên địa điểm ngày nay(Nay là Giáo xứ Đồng Sơn từ ngày 28/08/2008). Từ năm 1989 đến nay là thời kì giáo xứ có nhiều biến chuyển nhất. Năm 1989 họ Yên Thịnh xây dựng lại nhà thờ(từ năm 2010 nhà thờ này đang được trùng tu lại hoàn toàn.....). Năm 1990, một số giáo dân thuộc 3 giáo họ: Yên Thịnh, Tân Định, Xuân Yên và một số rất ít thuộc giáo họ Đông Kiểu di cư lên lập một làng công giáo mới, gọi là làng Xô Nổ (nay là họ Tân Sơn thuộc giáo xứ Đồng Sơn). Năm 1991, họ Tân Định xây dựng lai nhà thờ (năm 2013 bắt đầu trùng tu và khánh thánh....). Năm 1992, họ Xuân Yên xây dựng lại nhà thờ(đã sửa lại vào năm 20...). Đến 1994, họ Tân Sơn được thành lập và chọn thánh Gioan Baoti Xita làm quan Thầy, từ đây giáo xứ lại có thêm một giáo họ mới. Như vậy, hiện nay (trước năm 2008) giáo xứ Trang Nứa đã có 9 giáo họ. Năm 1996 nhà thờ xứ được khánh thành. Năm 1997, nhà thờ họ Thượng Thôn được khánh thành. Năm 2000 nhà nguyện Dòng mến thánh giá được khánh thành. Năm 2002, nhà thờ họ Sơn Lạng được khánh thành.
Ngoài những công trình được tái thiết cơ bản có nhiều công trình khác. Có 9/7 giáo họ đã xây dựng văn phòng và hội trường sinh hoạt.
Nguồn: Thầy Phạm Trọng Phương
Đức giáo hoàng Phaolô VI sẽ được tôn phong Chân phước
ReplyDelete13.05.2014
WHĐ (10.05.2014) – Hôm nay thứ Bảy 10-05-2014, Toà Thánh Vatican công bố: Đức giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn việc ban hành sắc lệnh về án phong Chân phước cho vị tiền nhiệm của ngài là Đức giáo hoàng Phaolô VI.
Chiều thứ Sáu 09-05, Đức giáo hoàng Phanxicô đã tiếp kiến Đức hồng y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ Phong Thánh, và cho phép Bộ này được ban hành Sắc lệnh công nhận Phép lạ do lời chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Phaolô VI (Giovanni Battista Montini), Giáo hoàng; sinh ngày 26 tháng 09 năm 1897 tại Concesio (Italia) và qua đời ngày 06 tháng 08 năm 1978 tại Castel Gandolfo (Italia).
Lễ tôn phong chân phước dự kiến diễn ra ngày 19 tháng Mười năm 2014, vào lúc bế mạc Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình.
Ngoài ra, Sắc lệnh nói trên cũng công nhận:
– Phép lạ do lời chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Luigi Caburlotto, linh mục giáo phận, người sáng lập Viện các Nữ tử Thánh Giuse; sinh ngày 07 tháng 06 năm 1817 tại Venezia (Italia) và qua đời tại đây ngày 09 tháng 07 năm 1897;
– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Giacomo Abbondo, linh mục giáo phận; sinh ngày 27 tháng 08 năm 1720 tại Salomino (Italia) và qua đời ngày 09 tháng 02 năm 1788 tại Tronzano (Italia);
– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Giacinto Alegre Pujals, linh mục Dòng Tên; sinh ngày 24 tháng 12 năm 1874 tại Terrassa (Tây Ban Nha) và qua đời ngày 10 tháng 12 năm 1930 tại Barcelona (Tây Ban Nha);
– Các nhân đức anh hùng của Tôi Tớ Chúa Carla Barbara Colchen Carré de Malberg, người mẹ gia đình, vị sáng lập Hiệp hội các Nữ tử Thánh Phanxicô Salêsiô; sinh ngày 08 tháng 04 năm 1829 tại Metz (Pháp), và qua đời ngày 28 tháng 01 năm 1891 tại Lorry-les-Metz (Pháp).
Thư kêu gọi của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam về Tình hình Biển Đông
ReplyDelete10.05.2014
"Hội đồng Giám mục Việt Nam xin các giáo phận tổ chức một ngày cầu nguyện cho Quê Hương, kêu gọi mọi người sám hối, tiết giảm chi tiêu ăn uống, mua sắm để góp phần nâng đỡ các ngư dân nạn nhân của tàu Trung Quốc và các chiến sĩ cảnh sát, hải giám Việt Nam bị thương..."
TGM Phaolô Bùi Văn Đọc